Thuốc Arbidol Xanh

Thuốc arbidol Xanh là loại thuốc kháng virus của Nga
Năm 2009 được chính phủ Nga đưa vào danh sách Thuốc quan trong và thiết yếu của Nga
Arbidol giúp ngăn chặn vi rút cúm A và B trong ống nghiệm (Vi rút cúm A, ?, bao gồm các phân nhóm gây bệnh cao A (H1N1) pdm09 và A (H5N1), cũng như các vi rút khác gây ra ARVI (#Coronavirus liên quan đến hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng (SARS) ), rhinovirus (Rhinovirus), adenovirus (Adenovirus), virus hợp bào hô hấp (Pneumovirus) và virus parainfluenza (Paramyxovirus))
Arbidol được sử dụng trong tăng cường hệ miễn dịch, và phòng chống virus tối đa.
Thuốc Arbidol Xanh

Thông tin chung:

Cơ quan quản lý thương hiệu Asgard đã thực hiện công việc đổi thương hiệu cho vật tư y tế nổi tiếng Arbidol cho công ty dược phẩm OTC Pharm. Arbidol là một loại thuốc kháng vi-rút chính gốc của Nga có phổ hoạt tính rộng. Nó là một trong những thương hiệu hàng đầu của OTC Pharm và là danh thiếp của công ty.

Lịch sử thương hiệu: Được phát triển từ thời Liên Xô vào năm 1974, loại thuốc này trong một thời gian dài là loại thuốc duy nhất được sử dụng để điều trị bệnh nhân cúm và ARVI. Tại Nga, Arbidol là công ty đầu tiên trên thị trường công bố một danh mục mới “chất chống vi rút”. Việc quảng bá thương hiệu trên phương tiện truyền thông bắt đầu từ năm 2000, và đến năm 2010 Arbidol đã được đưa vào đăng ký thuốc chiến lược trong nước.

Sau một loạt đợt bán hàng, thương hiệu Arbidol vào năm 2014 đã được OTC Pharm mua lại, hãng này đã mở rộng phạm vi thuốc bằng cách bổ sung thêm hai dạng – Arbidol Maximum với liều lượng tiện dụng và Arbidol dạng hỗn dịch dành cho trẻ em.

Mục tiêu đổi mới thương hiệu: Đến năm 2016, thương hiệu đã mất đi nhiều sức hấp dẫn. Với sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh tích cực, Arbidol bắt đầu bị đối tượng mục tiêu coi là “lỗi thời và không hiệu quả”.

Cơ quan đã đảo ngược quá trình này. Cần phải phân tích lý do từ chối mua hàng và tìm cách tiếp cận phù hợp để giải quyết vấn đề giao tiếp bằng hình ảnh với người tiêu dùng.

Sau khi nghiên cứu sâu và các cuộc hội thảo được tổ chức với nhân viên OTC Pharm, chúng tôi đã đi đến kết luận rằng phong cách đóng gói của những năm đầu 2000 trông cổ điển, “phi y tế” và không tạo được niềm tin cho đối tượng mục tiêu. Mặt trước của gói hàng không có thông tin quan trọng để người tiêu dùng giúp đưa ra quyết định mua hàng. Không có sự khác biệt rõ ràng giữa các loại thuốc trong đội hình.

Cơ quan này được giao nhiệm vụ phát triển một nhãn hiệu được cập nhật toàn diện và một dòng bao bì có thể gây chú ý trên kệ, phân biệt sản phẩm này với môi trường cạnh tranh và khơi dậy niềm tin vào thuốc. Tính năng chính của thuốc là định hướng kháng virus trực tiếp. Chúng tôi quyết định tập trung vào điều này và phản ánh nó ở mặt trước của gói, tạo ra một yếu tố nhận dạng bổ sung dưới dạng một hình ảnh sơ đồ của virus.

Trong các cuộc phỏng vấn nghiên cứu, người tiêu dùng phàn nàn rằng họ không thể nhìn thấy thuốc trên kệ ngay lập tức, vì tên của nó thường bị chặn bởi các vật lạ trên kệ sản phẩm trong chuỗi nhà thuốc. Chúng tôi đã chuyển logo thương hiệu lên trên cùng của nhãn, biểu tượng này cắt vào mặt trước minh họa của gói hàng bằng một cái nêm màu trắng. Kỹ thuật này giúp tập trung sự chú ý vào vùng thương hiệu đang hoạt động, mang lại cho nó cảm giác cần thiết của một loại thuốc và hợp nhất toàn bộ dòng sản phẩm, làm cho nó nổi bật trong môi trường cạnh tranh.

Các vị trí SKU có màu sắc khác nhau rõ rệt, điều này giúp đơn giản hóa việc lựa chọn loại thuốc cần thiết. Logo thương hiệu cũng đã được thiết kế lại một cách nghiêm túc. Nó đã trở nên hiện đại và khắc khổ hơn.

Để tăng thêm sự cao cấp cần thiết cho thương hiệu, khi in bao bì, chúng tôi đề xuất sử dụng các kỹ thuật như dập lá, dập nóng và đánh vecni tại chỗ. Vì vậy, biểu trưng của nhãn hiệu thương mại được phủ một lớp sơn bóng UV nổi và bóng, và khu vực nhãn hiệu được nhấn mạnh bởi một đường bạc lá dưới dạng một dấu kiểm.

Tất cả những thay đổi này đã dẫn đến mục tiêu đã đặt ra – sau khi đổi thương hiệu, doanh số bán thuốc đã tăng hơn 50%.